Gần đây, các phương tiện truyền thông sử dụng mạng xã hội ngày càng phát triển và chiếm ưu thế trong đời sống xã hội hiện đại.
Gần đây, các phương tiện truyền thông sử dụng mạng xã hội ngày càng phát triển và chiếm ưu thế trong đời sống xã hội hiện đại.
Việc sử dụng kênh truyền thông này vào hoạt động của một số bảo tàng trên thế giới và Việt Nam đã bước đầu mang lại hiệu quả tích cực trong việc quảng bá hình ảnh, thương hiệu, kết nối và thu hút công chúng… Đây là một hướng truyền thông để tiếp cận công chúng có nhiều lợi thế mà các bảo tàng Việt Nam nên nghiên cứu áp dụng trong xu thế hiện nay.

Trang Tripadvisor Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.
Trong những năm gần đây, các thuật ngữ như “truyền thông”, “quảng bá - marketing”, vốn thường chỉ được sử dụng trong các lĩnh vực thương mại, ngày càng được nhắc đến nhiều trong hoạt động của các thiết chế văn hóa xã hội, trong đó có bảo tàng. Cùng với sự bùng nổ của web 2.01, mà đại diện nổi bật là các mạng xã hội thì vai trò của truyền thông, quảng bá theo cách thức truyền thống, như quảng cáo trên đài, báo, biển hiệu… đã không còn là lựa chọn hàng đầu của các tổ chức thương mại cũng như các cơ quan văn hóa. Các đơn vị có xu hướng tìm kiếm những cách thức truyền thông, quảng bá mới nhằm chuyển tải “thông điệp” và “sản phẩm” của mình một cách hiệu quả nhất đến với công chúng hiện đại. Đặc biệt, sau những thập kỷ bùng nổ thông tin toàn cầu và những kỹ năng xử lý thông tin, công chúng ngày càng có hiểu biết hơn, cẩn trọng hơn trong quá trình tiếp cận thông tin và kiểm định độ tin cậy của thông tin. Như vậy, vai trò của truyền thông hiện đại trong hoạt động của bảo tàng không chỉ là việc loan tin về những trưng bày đang có hoặc sắp khai mạc ở bảo tàng, mà còn ở việc thay đổi cách tiếp cận của quá trình truyền thông, nhằm cung cấp đến công chúng những thông tin đáng tin cậy về một sản phẩn văn hóa có chất lượng cao của bảo tàng. “Sản phẩm văn hóa” ở các bảo tàng có thể là các trưng bày thường xuyên, trưng bày chuyên đề, các hoạt động giáo dục, các chương trình học tập… hoặc là các nhà hàng, cửa hàng lưu niệm có uy tín với các sản phẩm độc đáo, phù hợp với hoạt động của bảo tàng. Vì vậy, cùng với xu hướng mới của các hoạt động truyền thông hiện đại ở các doanh nghiệp, việc nghiên cứu và áp dụng phương thức truyền thông hiện đại phục vụ quảng bá các hoạt động của các cơ quan văn hóa nói chung và bảo tàng nói riêng là rất cần thiết. Phương tiện truyền thông mới, tức Phương tiện truyền thông sử dụng mạng xã hội (social media), là một môi trường truyền thông hiện đại, dựa trên nền tảng các dịch vụ web 2.0 (Blog, News/PR, Video, Social Network…). Nói một cách khác, hoạt động truyền thông sử dụng mạng xã hội sẽ góp phần giúp bảo tàng đưa thương hiệu của mình đến với công chúng một cách gần hơn, tin cậy hơn, thông qua các kênh thông tin mà công chúng tin tưởng và yêu thích sử dụng, tạo ra tạo sự hấp dẫn, để công chúng đến và quay lại tham quan bảo tàng nhiều lần. Tuy nhiên, hoạt động truyền thông này của bảo tàng cũng không thể thay thế được các trưng bày, các chương trình giáo dục hay các nghiên cứu chuyên đề…
Bảo tàng Guggenheim, New York, Hoa Kỳ một trong những bảo tàng có các trang mạng xã hội với hàng triệu người theo dõi và chia sẻ thông tin.
Tại sao các bảo tàng cần có chiến lược dùng truyền thông sử dụng mạng xã hội để tiếp cận công chúng?
Truyền thông sử dụng mạng xã hội thông qua các ứng dụng trên internet được các nhà nghiên cứu nhân học truyền thông xem xét như một quá trình để truyền đạt thông tin giữa những người có mong muốn chia sẻ thông tin một cách trực tiếp, mà không cần sử dụng các phương tiện lưu trữ như dạng văn bản viết truyền thống. Thông tin được truyền đạt nhanh nhất đến cộng đồng nhờ quá trình truyền thông của mạng xã hội. Chính vì sự cập nhật thông tin nhanh nhạy, trực tiếp và không hạn chế sự tương tác, các ứng dụng truyền thông (mạng) xã hội phát triển vô cùng nhanh chóng trong những năm qua. Theo số liệu thống kê của Cục Viễn thông2, chỉ riêng số thuê bao 3G sử dụng internet trên toàn quốc là 27.408.451 (số liệu tính đến tháng 10/2014, và chưa tính người dùng thuê bao internet cố định), theo Hiệp hội Internet Việt Nam3, tính đến tháng 8/2013, tại Việt Nam đã có 19,6 triệu người dùng Facebook, chiếm 21,42% dân số và chiếm tới 71,4% người sử dụng internet, đồng thời, dự báo số người dùng internet ở Việt Nam vào năm 2017 là khoảng 35 triệu người. Bên cạnh đó, nhiều mạng xã hội khác cũng được hàng triệu giới trẻ ở Việt Nam ưa thích, như: Zing Me, Google Plus, Twitter, Wordpress.com, Yume.vn, Go.vn… Hơn nữa, từ tháng 10 năm 2010, Bộ Thông tin và Truyền thông đã cấp giấy phép thử nghiệm 4G/LTE cho 5 nhà mạng: VNPT, Viettel, FPT , CMC và VTC, những ứng dụng internet có kết nối không dây vô cùng thuận tiện và không hạn chế tốc độ truy cập này sẽ giúp mạng xã hội phát triển các ứng dụng phụ trợ, hỗ trợ sự tương tác không hạn chế đối với người dùng trong tương lai gần.
Những số liệu trên cho thấy, một lượng lớn công chúng tiềm năng mà bảo tàng muốn hướng tới biết và thường xuyên sử dụng mạng xã hội với mục đích chia sẻ thông tin, giải trí và tìm kiếm các thông tin cần thiết khác. Họ là những người trẻ tuổi, bao gồm học sinh, sinh viên, đồng thời là những người thường xuyên sử dụng và khai thác internet thông qua máy tính hay điện thoại thông minh có khả năng kết nối 3G. Hơn nữa, nhóm công chúng này sẽ là những người tạo ra các xu hướng chia sẻ thông tin trong tương lai, họ tin tưởng hơn vào các thông tin với nhiều bình luận, nhiều phản hồi của người dùng, hơn là các quảng cáo một chiều trên các báo giấy, tạp chí truyền thống. Bảo tàng nếu muốn tham gia vào hoạt động của xã hội, phục vụ xã hội và đưa các trưng bày, các hoạt động của mình tiếp cận được nhanh hơn, sâu hơn với các hoạt động xã hội, đặc biệt là giới trẻ, không thể không áp dụng thế mạnh của truyền thông sử dụng mạng xã hội trong việc quảng bá, giới thiệu những trưng bày và hoạt động của bảo tàng đến với những đối tượng công chúng tiềm năng.

Trang facebook Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.
Và, hiệu quả của truyền thông sử dụng mạng xã hội với hoạt động của bảo tàng là thế nào?
Khi các bảo tàng muốn hướng tới công chúng là những người trẻ tuổi, học sinh, sinh viên, muốn chuyển tải các thông tin, các thông điệp của bảo tàng tới đối tượng công chúng này, trước hết bảo tàng phải sử dụng phương tiện cung cấp thông tin mà công chúng là lớp trẻ, học sinh, sinh viên thường dùng. Đặc biệt, trong xu hướng mới, truyền thông sử dụng mạng xã hội không chỉ ảnh hướng đến lớp trẻ hay học sinh, sinh viên mà còn có tác động đến đông đảo đối tượng công chúng tiềm năng khác của bảo tàng, như công chức nhà nước, nhân viên làm việc cho các cơ quan nước ngoài, công nhân, người về hưu và thậm chí cả nông dân, vốn quen với ruộng đồng, nhưng nhờ sự phát triển và sự phổ thông của công nghệ đã dần quen với điện thoại thông minh, mạng 3G (công nghệ truyền thông thế hệ thứ ba, cho phép truyền cả dữ liệu thoại và dữ liệu số khác như: truy cập internet, gửi email, tin nhắn nhanh, hình ảnh...). Thông qua quá trình trao đổi hai chiều giữa bảo tàng và công chúng, bảo tàng sẽ có cơ hội hiểu rõ hơn nhu cầu của công chúng, từ đó định hướng kế hoạch cho các hoạt động của bảo tàng trong tương lai sẽ phù hợp hơn với nhu cầu của công chúng. Hơn nữa, khi bảo tàng hiểu rõ hơn công chúng của mình, nội dung các trưng bày, hoạt động của bảo tàng sẽ hướng tới được đối tượng mục tiêu của mình, thỏa mãn nhu cầu thực của công chúng và có cơ hội cung cấp các dịch vụ văn hóa nhằm đưa khách tham quan và trở lại tham quan nhiều lần.
Truyền thông sử dụng mạng xã hội cung cấp cơ hội cho công chúng tự chia sẻ kinh nghiệm, chia sẻ kiến thức về nội dung của bảo tàng và tự nguyện hướng dẫn nhau về các thông tin liên quan đến bảo tàng - những việc mà không một bảo tàng nào có thể đảm bảo giải đáp thỏa mãn hết các thắc mắc và hướng dẫn tận tình cho từng khách tham quan muốn đến thăm bảo tàng. Đồng thời, truyền thông sử dụng mạng xã hội còn là nơi lưu giữ các trưng bày chuyên đề, dưới định dạng trưng bày số, phục vụ những công chúng có nhu cầu nguyên cứu sâu, công chúng không có cơ hội đến tham quan trưng bày... Mặt khác, truyền thông sử dụng mạng xã hội còn giúp bảo tàng tiếp nhận ý kiến phản biện của của công chúng về trưng bày. Qua đó, bảo tàng hiểu rõ hơn nhu cầu cá nhân của từng công chúng tham quan bảo tàng, hình thành cơ sở dữ liệu về xu hướng của khách tham quan - cơ sở để xây dựng chiến lược phát triển của bảo tàng. Ví dụ điển hình, như ở một số bảo tàng quốc tế gần đây đã cung cấp cho các thành viên của mạng lưới công chúng thường xuyên của mình những tài khoản tích điểm. Với tài khoản này, công chúng thường xuyên tới bảo tàng có thể truy cập intenet miễn phí ở bảo tàng, sử dụng các ứng dụng thuyết minh số miễn phí (audio guide, multimedia guide), tự lựa chọn nội dung để tìm hiểu sâu và bình luận về nội dung trưng bày. Đồng thời, giống như các hãng hàng không, bảo tàng tặng điểm thưởng cho công chúng đến thăm nhiều lần, tham gia nhiều hoạt động của bảo tàng. Từ các điểm thưởng này, khách có thể đổi thành vé tham quan các chuyên đề đặc biệt, mua các sản phẩm tại cửa hàng của bảo tàng hay sử dụng các dịch vụ ăn, uống tại nhà hàng của bảo tàng - tạo cơ hội quay lại bảo tàng cho công chúng tiềm năng.
Theo Báo cáo Xu hướng toàn cầu năm 2014 (Globle trend report 2014), mỗi ngày có 350 tỷ hình ảnh được đăng tải lên trang mạng xã hội Facebook, 350 tỷ hình ảnh đăng tải lên trang Snapchat; mỗi phút có 100 giờ video đưa lên trang chia sẻ video YouTube và mỗi tháng người dùng internet đã dùng 6 tỷ giờ theo dõi các video cũng trên trang này. Như vậy có thể thấy, xu hướng đăng tải, tìm kiếm và chia sẻ thông tin trên mạng xã hội hiện là một trong những kênh chia sẻ thông tin lớn được nhiều người theo dõi và tương tác. Tuy vậy, thực tế truyền thông sử dụng mạng xã hội không mang hiệu quả tức thời đến cho bảo tàng, không giúp tăng số lượng khách tham quan chỉ sau một vài tháng áp dụng. Truyền thông sử dụng mạng xã hội là một quá trình truyền thông có hiệu quả chậm, hiệu quả của các chiến dịch được tích lũy theo thời gian và từng bước thúc đẩy việc nâng cao hình ảnh của bảo tàng trong xã hội. Lấy ví dụ về sự kiện MET Gala hàng năm của Bảo tàng Nghệ thuật Metropollitan, New York, Hoa Kỳ, sự kiện được gần như tất cả cơ quan báo chí, truyền thông (mạng) xã hội và đông đảo công chúng yêu thích thời trang khắp thế giới mong chờ và theo dõi. Sự kiện MET Gala không chỉ giới thiệu các thiết kế thời trang mới, mà còn định hướng xu hướng thời trang thế giới trong năm tiếp theo. Các cơ quan truyền thông đại chúng thế giới đều nỗ lực tìm kiếm và phát tán thông tin, bình luận về sự kiện trước, trong và ngay sau khi diễn ra sự kiện này ở New York, Hoa Kỳ. Và, như vậy, thương hiệu của sự kiện MET Gala hàng năm không còn chỉ trong khuôn khổ của khuôn viên Bảo tàng MET, hay trong nhóm công chúng của Bảo tàng tại thành phố New York, mà còn được các phương tiện truyền thông lan tỏa khắp thế giới để thỏa mãn sự quan tâm, mong muốn cập nhật thông tin, hình ảnh về sự kiện của đông đảo công chúng yêu thời trang toàn cầu.
Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan, New York, Hoa Kỳ một trong những bảo tàng có các trang mạng xã hội với hàng triệu người theo dõi và chia sẻ thông tin.
Bảo tàng, với vai trò góp phần phát triển xã hội, tham gia vào các hoạt động của xã hội, thực hiện các nhiệm vụ, chức năng giáo dục của mình cũng cần bắt kịp xu hướng mới của xã hội trong quá trình chia sẻ và trao đổi thông tin. Từ đó, không những bảo tàng mở rộng cơ hội tự giới thiệu, được công chúng tự nguyện quảng bá cho bảo tàng mà còn thể hiện sự tiếp cập tiến bộ của mình với các xu hướng mới của xã hội.
Nguyễn Hải Ninh (Cục Di sản Văn hóa)
Tài liệu tham khảo:
1- Web 2.0 là thế hệ thứ 2 của web, cung cấp nhiều tùy chọn hơn cho người sử dụng, các thông tin và dữ liệu được cập nhật hàng ngày. Trong đó, người sử dụng có thể tham gia đóng góp, chia sẻ thông tin, làm phong phú cho trang web một cách dễ dàng (Nguồn: web20.vn).
2- Cục Viễn thông, Bộ Thông tin và Truyền thông:
http://vnta.gov.vn/Trang/thongkevienthong.aspx?m=10&y=2014&f=10.
3- Hiệp hội internet Việt Nam: http://via.org.vn/wp-content/uploads/2013/12/VIA-Internet-Day-2013_Bao-cao-Internet_20131.pdf.
4- Trang facebook của Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan:
https://www.facebook.com/metmuseum?fref=ts.
5- Tư liệu Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.