Lam Sơn/Lam Kinh địa danh ấy khá nổi tiếng trong lịch sử và đã ăn sâu vào tâm thức dân gian, bởi nơi đây chính là vùng đất phát tích đế vương, vùng đất căn bản của nhà hậu Lê. Nói tới Lam Sơn/Lam Kinh là nói tới phức hợp di tích bao gồm các công trình điện, miếu thờ tự có qui mô to lớn và hệ thống lăng mộ các vua và hoàng tộc cùng các công thần khai quốc của vương triều nhà Lê - một vương triều có lịch sử lâu dài nhất trong lịch sử quân chủ Việt Nam.
Lam Sơn/Lam Kinh địa danh ấy khá nổi tiếng trong lịch sử và đã ăn sâu vào tâm thức dân gian, bởi nơi đây chính là vùng đất phát tích đế vương, vùng đất căn bản của nhà hậu Lê. Nói tới Lam Sơn/Lam Kinh là nói tới phức hợp di tích bao gồm các công trình điện, miếu thờ tự có qui mô to lớn và hệ thống lăng mộ các vua và hoàng tộc cùng các công thần khai quốc của vương triều nhà Lê - một vương triều có lịch sử lâu dài nhất trong lịch sử quân chủ Việt Nam.
Hiện nay, di tích đang được trùng tu, tôn tạo, phục hồi và từng bước phát huy tác dụng với sự quan tâm và đầu tư của nhà nước, nhằm từng bước khôi phục lại diện mạo vôn có của di tích với những công trình kiến trúc phảng phất mang thức kiến trúc thời Lê cùng hệ thống lăng mộ với nhưng hàng tượng người và thú đặc biệt là những tấm bia đá có thể khối lớn, thực sự là những tác phẩm nghệ thuật có giá trị nhiều mặt. Tuy nhiên trong hệ thống lăng Lam Sơn, còn thiếu lăng mộ vua Lê Nhân Tông. Việc nghiên cứu tìm hiểu về vị trí của lăng mộ Lê Nhân Tông nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống lăng mộ Lam Sơn là một đòi hỏi bức thiết cho công tác trùng tu, tôn tạo cũng như nghiên cứu lâu dài.
Đồi Xà Cừ (nhìn từ phía Hồ Tây).
Đọc lại những ghi chép của các sử gia thời quân chủ ta biết tại vùng núi rừng Lam Sơn có 6 vua đầu triều Lê sơ được an táng tại Lam Sơn là Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông, Hiến Tông, Túc Tông. Từ sau vua Túc Tông, triều đình Lê sơ còn có bốn vị vua nữa là Uy Mục, Tương Dực, Chiêu Tông và Cung Hoàng, nhưng không có ai nối ngôi được trọn vẹn cho đến lúc mất, mà đều bị các vua sau chiếm đoạt, hoặc phế đi, hoặc bị giết, cho nên lúc mất, không theo lệ cũ là đưa về Lam Sơn an táng nữa, mà táng ở nơi khác. Ngoài ra, ở Lam Sơn cũng còn có lăng mộ của các hoàng hậu như Ngô Thị Ngọc Dao, Nguyễn Thị Ngọc Huyên, công chúa Thụy Hoa cùng một số công thần của nhà Lê. Mỗi lần có một vị vua băng hà, triều đình đứng ra tổ chức long trọng, rồi sau đó đưa về an táng tại Lam Sơn, hoặc một năm sau làm lễ chiêu hồn rồi đưa về mai táng. Công việc mai táng được tiến hành theo các nghĩ lễ, ngoài xây lăng, đắp mồ, còn dựng bia ghi tiểu sử, công tích của người đã mất..
Trải qua quá trình tồn tại lâu dài, hiện nay, hầu hết các lăng mộ ở Lam Kinh đều đã được tu sửa khang trang với các tượng người và thú xếp ngay ngắn, các tấm bia lớn đều có mái che mưa nắng. Tài liệu hiện nay cho biết hệ thống lăng mộ ở Lam Kinh là một khu lăng mộ còn khá nguyên vẹn, có niên đại sớm nhất trong hệ thống lăng mộ các triều đại quân chủ Việt Nam với những về đặc điểm, cấu trúc và không gian phân bố di tích khá độc đáo.
Tượng quan hầu lăng Lê Thái Tổ.
Trong số các vị vua Lê sơ an táng ở rừng Lam Sơn hiện nay lăng mộ của vua Lê Nhân Tông vẫn chưa xác định được .
Từ năm 1942, L. Bezacier được người dân trong khu vực chỉ dẫn đến khảo sát ở khu vực đồi Luồng, thuộc làng Dao Xá, nằm cách khu trung tâm Lam Kinh khoảng gần 1km về phía đông bắc. Mặc dù không tìm thấy vết tích gì, song L. Bezacier cho nhiều khả năng khu vực này có liên quan đến lăng mộ vua Lê Nhân Tông.
Từ năm 1996, khi nghiên cứu khảo cổ học, phục vụ Dự án trùng tu - tôn tạo khu di tích Lam Kinh, việc xác định vị trí lăng mộ vua Lê Nhân Tông, nhằm khôi phục đầy đủ hệ thống lăng mộ các vua và Hoàng hậu thời Lê sơ đã trở nên cấp thiết. Năm 2001, khi tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi cho rằng hệ thống lăng mộ các vua ở Lam Kinh được bố trí theo trật tự hàng chiêu - mục (trái - phải), lấy lăng mộ vua Lê Thái Tổ làm chuẩn, và như vậy Mục lăng của vua Lê Nhân Tông sẽ nằm về phía tây. Trên cơ sở đó chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực địa và chọn khu vực Đồi Xà Cừ thám sát tìm lăng mộ Lê Nhân Tông theo. Đây là quả đồi nằm ở phía tây khu trung tâm Lam Kinh, có nhiều cây xà cừ và lim, phía trước là hồ Tây, sau là lăng mộ Lê Hiến Tông và rừng lim cổ thụ. Kết quả thám sát chỉ tìm thấy một số vật liệu và trang trí kiến trúc, còn dấu tích liên quan đến lăng mộ tuyệt nhiên không có. Như vậy, ghi chép của sử sách về Mục lăng của vua Lê Nhân Tông vẫn còn là ẩn số ? và phân bố theo trật tự chiêu - mục trên thực địa vẫn chưa được lý giải.
Tượng voi lăng Lê Hiến Tông.
Cùng với việc thám sát ở khu Đồi Xà Cừ, chúng tôi cũng đã tiến hành khảo sát và phát hiện một số di vật ở khu vực đồi Luồng, trong đó đáng chú ý nhất là những viên gạch dạng múi bưởi xây hầm mộ, đặc biệt là những mảng dạng hợp chất giống như đã tìm thấy ở lăng vua Lê Hiến Tông và Hoàng Hậu Nguyễn Thị Ngọc Huyên.
Rùa đế bia mới tìm thấy ở khu vực đồi Luồng.
Đồi Luồng (hay còn gọi là kho Muối, vì đây là kho muối vào khoảng năm 1960 của Hợp tác xã) là một quả đồi dạng "bát úp" khá phổ biến ở miền địa hình nơi đây, nằm gần khu vực các lăng mộ của vua Lê Thái Tông, Lê Thánh Tông và Hoàng Hậu Ngô Thị Ngọc Dao. Dưới chân các quả đồi này là hệ thống sông suối cổ, nay vẫn còn vết tích. Phía trước là hồ Đẻn, phía sau là núi Trọc hay núi Choé, nhân dân trong vùng còn lưu truyền câu “Đầu gối núi Choé, chân đạp cửa Khâu” phản ánh tư duy phong thuỷ khi chọn đất xây cất mồ mả. Cửa Khâu nay là cánh đồng thuộc làng Dao Xá, xã Xuân Lam. Đây vẫn còn một con suối nhỏ nhập với dòng chảy của sông Ngọc đổ ra sông Chu qua cầu Trê (Đầm), đầu kia nối với hồ Đẻn (hồ Phú Lâm). Theo lời kể dân gian thì vào khoảng đầu thế kỷ 20, nơi đây còn có bia mộ ?, sau đó bia bị ném xuống hồ này. Phía xa là núi Choé hay núi Trọc.
Như vậy, kết quả khảo sát khảo cổ học cùng với tài liệu dân tộc học đã cho phép dự đoán về vị trí lăng mộ vua Lê Nhân Tông ở khu vực đồi Luồng là có cơ sở. Tuy nhiên, dường như vẫn cần có thêm những chứng cứ bổ sung.
Tháng 10 năm 2004, trong khi nạo vét và tôn nền làm đường Hồ Chí Minh đoạn đi qua khu Lam Kinh (Thọ Xuân - Thanh Hoá) công nhân Đội 12 (Tổng Công ty xây dựng đường Hồ Chí Minh) đã phát hiện được con rùa đá đội bia, nằm sau 0,7m ở đỉnh đồi Luồng. Rùa thuộc loại nhỏ, đã vỡ mất đầu, dài còn lại 1,05m, rộng 0,94m, lỗ ngõng cắm bia kích thước 46 x12,5 x15cm (sâu). Đá vôi màu trắng xám, rùa 4 móng.
Khu vực phát hiện thuộc địa phận thôn Phú Lâm, khu vực giáp ranh với Lam Sơn. Nơi đây có truyền thuyết, nếu nơi nào có bia đá và tượng con giống thì thuộc về đất thuộc Lam Sơn, còn không có là thuộc đất làng Phú Lâm (truyền thuyết này gợi nhớ cuộc xung đột giữa họ Lê (Lợi) và họ Đỗ (Phú), làng Choán và làng Rào...). Có lẽ chính vì vậy mà vào khoảng đầu thế kỷ 20, người dân làng Phú Lâm đã đập phá con giống, còn văn bia thì đạp đổ và vứt xuống hồ Đẻn (hồ Phú Lâm). Việc phát hiện được rùa đá đội bia đã cho thấy những giả thiết và suy luận về vị trí lăng mộ vua Lê Nhân Tông ở khu vực đồi Luồng là có cơ sở.
Từ kích thước của rùa, có thể xác định kích thước của bia thuộc loại nhỏ, tương đương với bia mộ vua Lê Thái Tông. Và, nếu như vị trí lăng mộ vua Lê Nhân Tông nằm ở đồi Luồng, thì rõ ràng hệ thống lăng mộ Lam Kinh trên đại thể đã tuân thủ trật tự hàng chiêu - mục, còn lăng mộ vua Lê Nhân Tông là ngoại lệ. Có thể lý giải trường hợp này bởi cái chết không bình thường của ông, bị Nghi Dân giết hại và cướp ngôi.
Nguyễn Văn Đoàn