Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 là một mốc son đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của cách mạng Việt Nam nói chung, của công tác tổ chức và cán bộ nói riêng. Điều đó đã mở ra một thời kỳ mới của đất nước ta - một thời kỳ có Quốc hội, có Chính phủ thống nhất, có một bản Hiến pháp tiến bộ và có cả một hệ thống chính quyền từ Trung ương đến địa phương, có đầy đủ cơ sở pháp lý đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối nội cũng như đối ngoại.
Một cuộc tuyển cử thần kỳ
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 03-9-1945, tức là sau lễ Tuyên ngôn độc lập một ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu, nghèo, tôn giáo, dòng giống, v.v...” (1).
Nhân dân Thủ đô Hà Nội đi bỏ phiếu bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 6/1/1946. Ảnh tư liệu
Tiếp đó, ngày 08-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 14-SL về cuộc Tổng tuyển cử bầu đại biểu Quốc hội để thành lập một cơ quan lập pháp chính thống (Quốc hội) của nước Việt Nam mới. Sắc lệnh nói rõ, “Chiểu theo Nghị quyết của quốc dân Đại hội ngày 16, 17-8-1945 tại khu giải phóng, ấn định rằng nước Việt Nam sẽ theo chính thể dân chủ cộng hòa và Chính phủ nhân dân toàn quốc sẽ do một Quốc dân đại hội bầu ra theo lối phổ thông đầu phiếu cử lên;
Xét rằng nhân dân Việt Nam do Quốc dân đại hội thay mặt là quyền lực tối cao để ấn định cho nước Việt Nam một Hiến pháp dân chủ cộng hòa;
Xét rằng trong tình thế hiện giờ sự triệu tập Quốc dân đại hội không những có thể thực hiện được mà lại rất cần thiết để cho toàn dân tham gia vào công cuộc củng cố nền độc lập và chống nạn ngoại xâm...”(2). Chương trình công tác đối nội đầu tiên của Chính phủ liên hiệp lâm thời là, “Làm cho cuộc toàn dân tuyển cử được thành công mỹ mãn và chuẩn bị sẳn sàng việc khai Quốc hội”(3).
Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử, các Ban bầu cử đã được thành lập cho tới tận xã, làng, bản, ấp do các Ủy ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm. Danh sách cử tri và các ứng cử viên được niêm yết công khai. Nhân dân sôi nổi trao đổi, tranh luận, nhằm lựa chọn đúng đắn những người xứng đáng nhất đại diện cho mình và hạn chế tới mức thấp nhất tình huống kẻ cơ hội tranh giành quyền lực, chức tước làm tổn hại cách mạng.
Càng gần đến ngày Tổng tuyển cử, khí thế trong cả nước càng sôi nổi. Một số địa phương ở phía Nam do lệnh lùi ngày bầu cử không kịp đến nên vẫn Tổng tuyển cử như kế hoạch đã định là 23-12-1945. Tuy nhiên ở những nơi đó Tổng tuyển cử vẫn diễn ra và thắng lợi tưng bừng làm cho không khí chính trị trong cả nước sôi động hướng tới ngày 06 tháng Giêng năm 1946. Uy tín của Đảng, của Bác ngày càng dâng cao. Ở Hà Nội có 118 Chủ tịch các Ủy ban nhân dân và tất cả các giới làng, xã đã công bố một bản kiến nghị: “Yêu cầu Cụ Hồ Chí Minh được miễn phải ứng cử trong cuộc Tổng tuyển cử sắp tới vì Cụ đã được toàn dân suy tôn làm Chủ tịch vĩnh viễn của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Bác đã hết sức trân trọng tấm lòng người dân và đã gửi thư cho đồng bào ngoại ô như sau: “Tôi rất cảm động được đồng bào quá yêu mà đề nghị: tôi không phải ra ứng cử, đồng bào các nơi khác cử tôi vào Quốc hội. Nhưng tôi là một công dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nên tôi không thể vượt khỏi thể lệ của Tổng tuyển cử đã định.
Tôi ra ứng cử ở Hà Nội, nên cũng không thể ra ứng cử ở nơi nào nữa.
Xin cảm tạ các đồng bào đã có lòng yêu tôi và yêu cầu toàn thể đồng bào hãy làm tròn nhiệm vụ người công dân trong cuộc Tổng tuyển cử sắp tới” (4).
Ngày 03-01-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì phiên họp của Chính phủ liên hiệp lâm thời để kiểm tra lần cuối các công việc chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử và ngày 05-01-1946, Bác ra lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu, trong Lời kêu gọi có đoạn, “Ngày mai tất cả các bạn cử tri đều phải nhớ đi bầu cử. Ngày mai mỗi người đều nên vui vẻ hưởng quyền lợi của một người dân độc lập tự do”. Chiều hôm đó Bác đã tham dự cuộc mít tinh lớn của hơn hai vạn nhân dân Thủ đô tại Đông Dương học xá (nay là Trường Đại học Bách khoa), nhiệt liệt chào mừng Tổng tuyển cử.
Ngày 06-01-1946, cuộc Tổng tuyển cử đã được tiến hành sôi nổi ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước. Tại Hà Nội, đúng 7 giờ sáng, tiếng chuông, tiếng trống ở các nhà thờ, các chùa chiền đã vang lên khắp các phố phường, kéo dài tới 15 phút, báo hiệu giờ Tổng tuyển cử bắt đầu. Hà Nội tổ chức Tổng tuyển cử khá chu đáo, diễn ra với khí thế ngập tràn phấn khởi. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với hàng chục vạn cử tri đã đi làm nghĩa vụ công dân. Người đã bầu cử ở phòng bỏ phiếu tại nhà số 10 phố Hàng Vôi (nay thuộc phố Lý Thái Tổ), sau đó Người còn đi thăm nhiều nơi bỏ phiếu ở các phố Hàng Bạc, Hàng Gai, Hàng Trống, Thụy Khuê, Ô Đông Mác...
Có thể khẳng định rằng, Tổng tuyển cử là một cuộc thử thách máu lửa trên phạm vi cả nước mà nhân dân ta đã anh dũng vượt qua và đã chiến thắng. Ngay tại Thủ đô, ở khu Ngũ Xã, bọn phản động đã huy động một lực lượng khá đông có trang bị súng liên thanh trực tiếp ngăn cản cử tri đi bỏ phiếu; chúng cấm treo cờ đỏ sao vàng, cấm đặt các hòm phiếu...Nhưng nhân dân không hề nao núng, vẫn làm nghĩa vụ công dân khá đầy đủ; 172.765 trên tổng số 187.880, tức 91,95% cử tri của cả 74 khu phố nội đô và 118 thôn, làng ngoại ô đã đi bỏ phiếu. Trong số 74 ứng cử viên đã có 6 người trúng cử đại biểu Quốc hội. Người trúng cử thấp nhất cũng đạt 52,50% số phiếu hợp lệ. Người trúng cử với số phiếu cao nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh 98,40%.
Ở phía Bắc, một vài nơi đã xảy ra đổ máu. Tại Hải Phòng (các khu vực bỏ phiếu như Nhà hát lớn, phố Tràng Kênh...) quân Tưởng xông vào cướp súng của tự vệ đang bảo vệ hòm phiếu, ta bắn cảnh cáo, chúng huy động lực lượng đến cướp hòm phiếu; công an, tự vệ ta phải giằng co để giữ cho được hòm phiếu. Chúng đã bắt của ta 16 công an, 40 tự vệ và hành hung rất dã man nhiều người khác. Chúng ta đã kịp thời huy động hàng nghìn người mít tinh, biểu tình, thị uy, phản đối kịch liệt hành động của chúng, buộc chúng phải thả những người đã bị bắt. Mặc dù vậy , Hải Phòng vẫn có tới 96% cử tri đi bỏ phiếu(5).
Ở các tỉnh, thành phía Nam, nhất là Nam Bộ, cuộc Tổng tuyển cử đã diễn ra dưới đạn bom rất ác liệt của quân thù, vì ngay từ cuối tháng 10 năm 1945 sau khi được tăng viện, thực dân Pháp đã đánh phá khắp các tỉnh Nam Bộ, chúng đổ bộ lên Nha Trang, đánh phá rộng ra các tỉnh Nam Trung Bộ và các vùng rừng núi Tây Nguyên. Chúng dự tính trong một thời gian ngắn phải thôn tính cho được từ vĩ tuyền 16 trở vào. Cuộc Tổng tuyển cử gặp nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng nhân dân miền Nam đã thể hiện rõ ý chí độc lập, thống nhất cao, kiên quyết kháng chiến chống lại thực dân Pháp xâm lược; nhiệt liệt ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam. Bất chấp bom đạn của thực dân Pháp, nhân dân vẫn đi bỏ phiếu rất đông. Nhiều nơi cử tri phải đánh đổi cả xương máu để thực hiện cho được quyền tự do dân chủ của mình. Tại Sài Gòn - Chợ Lớn, quân pháp đã chiếm đóng toàn bộ thành phố và các vùng lân cận. Tiếng súng kháng chiến đã vang lên dưới nhiều hình thức, diệt tề trừ gian; tập kích đốt phá kho tàng của địch... Cuộc Tổng tuyển cử ở đây đã diễn ra trong sự lùng ráp, khủng bố gắt gao của quân thù. Ủy ban hành chính thành phố đã phải chuyển ra ngoại ô phía Tây Nam, nhưng vẫn bám sát chỉ đạo nhân dân nội ô, ngoại ô tiến hành Tổng tuyển cử. Không có nơi đặt hòm phiếu cố định, hàng trăm hòm phiếu được lưu chuyển đến từng ngõ, từng nhà cho cử tri bỏ phiếu; 42 cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh anh dũng trong khi làm nhiệm vụ Tổng tuyển cử. Tại Nha Trang, máy bay Pháp ném bom khủng bố làm chết 4 người, 12 người bị thương. Tại Tân An, máy bay địch xả đạn vào nơi cử tri đang bỏ phiếu, làm 14 người chết, nhiều người bị thương, nhiều nơi phải bỏ phiếu ban đêm, vậy mà có đến 90% cử tri đã hoàn tất việc bỏ phiếu. Tại Cần Thơ, quận Trà Ôn, làng Đông Thành, máy bay địch oanh tạc dữ dội nhưng 1.827 trong số 2.188 cử tri vẫn đến được hòm phiếu làm nghĩa vụ công dân; ở làng Thành Mỹ Hưng, bất chấp địch càn quét, đánh phá, 4.209 trên 4.288 cử tri vẫn tới được hòm phiếu làm nghĩa vụ của mình. Ở Mỹ Tho, máy bay địch rà theo kênh, rạch bắn phá suốt ngày, nhưng tại Mỹ Hạnh Đông, cán bộ ta vẫn chèo ghe, xuồng, đánh trống, chở hòm phiếu len lỏi vào các kênh mương, rạch nhỏ nơi đồng bào tản cư để cử tri bỏ phiếu...(6).
Tại Tây Nguyên, hai ngày trước ngày bầu cử, thực dân Pháp đã huy động máy bay liên tục ném bom lửa xuống các làng Ra Đê và tấn công nhiều làng khác cách Buôn Ma Thuột 19 km...
Có thể nói, các tỉnh, thành phía Nam, trừ Tây Ninh, nơi chiến sự đã xẩy ra rộng khắp và vô cùng ác liệt, trước ngày bầu cử, một trong hai ứng cử viên đã bị địch giết hại nên không thực hiện được cuộc bầu cử, còn tất cả các tỉnh, thành đều đã tiến hành cuộc Tổng tuyển cử với tuyệt đại bộ phận các cử tri đã đi bỏ phiếu, trong đó nhiều tỉnh cử tri đi bầu đạt tỷ lệ rất cao như Sa Đéc 93,54%, Bạc Liêu 90,77%...
Nhìn chung cuộc Tổng tuyển cử ở cả 71 tỉnh, thành trong cả nước đã có tới 89% tổng số cử tri đã đi bỏ phiếu, phổ biến đạt mức 80%, nhiều nơi đạt cao tới 95%. Có một vài nơi phải bầu bổ sung, còn tuyệt đại đa số các địa phương chỉ bầu một lần. Cả nước đã bầu được 333 đại biểu, trong đó có 57% số đại biểu là công nhân, nông dân, chiến sĩ cách mạng; 10 đại biểu là phụ nữ; 34 đại biểu là người dân tộc thiểu số. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của Việt Nam đã hoàn toàn thắng lợi. Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập đã ra đời.
Chúng ta không thể không nhắc đến một sự kiện quan trọng trong việc thành lập Quốc hội khóa đầu tiên. Đó là một sách lược tuyệt vời của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chính sách đoàn kết, tập hợp lực lượng, làm dịu tình hình đang hết sức căng thẳng. Sáng ngày 02-3-1946, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa I nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã khai mạc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn khai mạc kỳ họp, Bác đã nêu lên thắng lợi và ý nghĩa lớn lao của cuộc Tổng tuyển cử ngày 06-01-1946, đã “tỏ cho thế giới, cho toàn dân biết là chúng ta đoàn kết nhất trí”. Sau đó Người đề nghị với Quốc hội mở rộng số đại biểu Quốc hội thêm 70 người nữa; 70 người đó dành cho các vị ở hải ngoại về là Việt Nam quốc dân đảng (Việt quốc) và Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt cách). Tất cả các đại biểu dự kỳ họp đều tán thành đề nghị của Bác. Như vậy Quốc hội khóa I gồm 333 đại biểu được nhân dân bầu ra và 70 đại biểu mở rộng thêm không qua bầu cử, tổng cộng là 403 đại biểu.
Phát huy những bài học của Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên
1- Cuộc Tổng tuyển cử lập ra Quốc hội đầu tiên vừa là thành quả to lớn, vừa là yêu cầu cấp bách của việc xây dựng và hoàn thiện một Nhà nước cách mạng. Quốc hội ra đời trong khói lửa đấu tranh gian khổ của toàn dân tộc với ý chí bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước và đại đoàn kết toàn dân là một thành công, một thắng lợi vĩ đại, do đó và vì thế nó có ý nghĩa là một Quốc hội lập quốc (lập nên một Nhà nước Công-Nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á).
Quang cảnh buổi khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá I, ngày 2/3/1946. Ảnh: Tư liệu
2- Cuộc Tổng tuyển cử diễn ra trong thời khắc nhân dân ta vừa thoát khỏi kiếp nô lệ của cả nghìn năm phong kiến và gần trăm năm thuộc địa, đế quốc Pháp lại đang gây chiến, hòng cướp nước ta, đô hộ dân ta một lần nữa. Trong điều kiện ấy mà Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn hạ quyết tâm Tổng tuyển cử và Tổng tuyển cử đã thắng lợi to lớn, vang dội - một sự kiện hiếm có trong lịch sử cách mạng thế giới. Điều này khẳng định rằng, Đảng với dân là một (ý Đảng, lòng Dân). Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn toàn tin tưởng vào ý chí, nguyện vọng độc lập dân tộc và sự đồng lòng nhất trí của toàn dân tộc ta tuyệt đối tin tưởng vào sự chèo lái, lãnh đạo tài trí của Đảng và Bác kính yêu, đặc biệt là trong những lúc tình thế hiểm nghèo, “ngàn cân treo sợi tóc” như bối cảnh của cuộc Tổng tuyển cử. Một sự kiện đã nói ở trên, khi Việt quốc và Việt cách gây căng thẳng và mưu đồ lật đổ Chính phủ cách mạng, Quốc hội đã chấp thuận cho 70 người (50 người của Việt quốc và 20 người của Việt cách) là đại biểu Quốc hội không qua bầu cử, nhưng như đã dự tính trước, chính họ đã tự đào thải họ, chỉ ít lâu sau số đông trong số họ đã chạy theo giặc hoặc đào nhiệm nên đã bị Quốc hội truất quyền đại biểu. Việt quốc chỉ còn duy nhất một người trong số 50 người đủ tư cách đại biểu. Những đại biểu do dân bầu ra, tuyệt đại bộ phận đã xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri, đã rất mẫn cán trong công tác và chiến đấu vô cùng dũng cảm. Một số đại biểu đã hy sinh anh dũng trước họng súng quân Pháp như: Lý Chính Thắng, đại biểu Sài Gòn - Chợ Lớn; Thái Văn Lung, đại biểu Gia Định; Nguyễn Văn Luyện, đại biểu Hà Nội; Nguyễn Văn Tố, đại biểu Nam Định (Trưởng ban đầu tiên của Ban thường trực Quốc hội, nay là Ủy ban thường vụ Quốc hội); Lê Thế Hiếu, đại biểu Quảng Trị; Trần Kim Xuyến, đại biểu Bắc Giang; Nguyễn Văn Triết, đại biểu Thủ Dầu Một; Huỳnh Bá Nhung, đại biểu Rạch Giá; Siểng, dân tộc Khơme, đại biểu Biên Hòa...
3- Quốc hội đầu tiên là Quốc hội độc lập dân tộc, Quốc hội thống nhất đất nước và là Quốc hội đoàn kết toàn dân. Quốc hội đã bao hàm khá đầy đủ các đại biểu cả ba miền Bắc, Trung, Nam, đại diện cho hầu hết các thế hệ những người Việt Nam yêu nước từ già chí trẻ, các giai tầng xã hội; nam, nữ, công nhân, nông dân, nhân sĩ, trí thức, các doanh nhân, các nhà hoạt động văn hóa, văn nghệ, các tôn giáo (Thiên chúa giáo, Phật giáo, Cao đài...), các dân tộc (Mường, Tày, Nùng, Thái, Mèo, Ba na, Cơ tu, Ra đê, Ê đê, Gia rai, Khơ me, Hán...). Quốc hội còn bao gồm những người không đảng phái và những người của các đảng phái chính trị, xã hội khác nhau, những người vốn là quan lại của chế độ cũ...Bài học đại đoàn kết có thể coi là bài học cơ bản, xuyên suốt từ khi Đảng ta ra đời, được phát huy cao độ trong Tổng tuyển cử và được nhân rộng cho đến tận bây giờ và chắc chắn còn mãi mai sau.
4- Cuộc Tổng tuyển cử thắng lợi là một mốc son đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của cách mạng Việt Nam nói chung, của công tác tổ chức và cán bộ nói riêng. Điều đó đã mở ra một thời kỳ mới của đất nước ta - một thời kỳ có Quốc hội, có Chính phủ thống nhất, có một bản Hiến pháp tiến bộ và có cả một hệ thống chính quyền từ Trung ương đến địa phương, có đầy đủ cơ sở pháp lý đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối nội cũng như đối ngoại. Nhà nước được quốc dân giao phó cho những nhiệm vụ cực kỳ nặng nề là điều hành đất nước, kháng chiến, kiến quốc và bang giao trên trường quốc tế.
5- Cũng như bài học đại đoàn kết, sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng là bài học thực tế có tính nguyên tắc và vĩnh cửu. Đảng đã dựa hẳn vào dân, bắt rễ sâu trong lòng dân tộc, do đó đã đáp ứng được khát vọng độc lập dân tộc, tự do, dân chủ của nhân dân. Với lãnh tụ kiệt xuất Hồ Chí Minh và thông qua Mặt trận Việt Minh, một tổ chức rộng lớn do chính Đảng tổ chức và lãnh đạo, do đó Đảng vẫn giữ vững và phất cao ngọn cờ lãnh đạo toàn dân vượt qua mọi khó khăn, không quản ngại hy sinh gian khổ, thực hiện Tổng tuyển cử thành công. Từ đó đến nay, Đảng ta vẫn thường xuyên, liên tục phát huy, nâng cao ý nghĩa và giá trị tốt đẹp của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, vận dụng vào những cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội các khóa sau này. Gần đây nhất là Chỉ thị số 45-CT/TW ngày 20-6-2020 của Bộ Chính trị về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Điểm 4 của Chỉ thị nhấn đậm việc chỉ đạo công tác nhân sự - công tác cán bộ: “Việc lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phải bảo đảm theo đúng quy trình luật định và hướng dẫn của các cơ quan Trung ương có thẩm quyền. Các cấp ủy đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm trong việc tổ chức hiệp thương giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong công tác bầu cử, bảo đảm các điều kiện thuận lợi để mọi công dân thực hiện đầy đủ quyền ứng cử, bầu cử theo quy định của pháp luật”.
Sự chỉ đạo sát sao, chặt chẽ của Đảng trong các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân là nhằm mục tiêu xây dựng các cơ quan dân cử đủ mạnh, đủ hiệu lực và hoạt động có hiệu quả cao trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.
(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8 (1945-1947), Nxb CTQG, HN 2000, trang 2.
(2) Việt Nam dân quốc công báo, số ra ngày 29-9-1945.
(3) Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946-1960, Nxb. CTQG, HN 1994, trang 39.
(4) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. ST, tập 4, HN 1987, trang 71.
(5) Hải Phòng, Lịch sử chống thực dân Pháp xâm lược, Nxb. QĐND, HN. 1986, tr. 89.
(6) Báo Sự Thật, số ra ngày 10-01-1946.
(7) Như (3), các trang 124-125.
TS. Bùi Ngọc Thanh, nguyên Ủy viên UBTVQH, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội