Thứ Sáu, 18/07/2025
  • Tiếng Việt
  • English
  • French

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vietnam National Museum of History

30/06/2025 08:45 365
Điểm: 0/5 (0 đánh giá)
Là người sáng lập, người thầy của báo chí cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản báo chí vô cùng đồ sộ, góp phần quan trọng vào kho tàng văn hóa dân tộc. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người đã viết hàng vạn trang báo bằng nhiều thứ tiếng: tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc… đặc biệt là tiếng Việt, Việt Nam - từ đầu những năm 1920 cho đến khi qua đời (năm 1969).

Riêng đối với báo Nhân dân, cơ quan Trung ương của Đảng, kể từ ngày báo ra số đầu tiên (11/3/1951) đến khi qua đời (2/9/1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết cho báo 1.205 bài với 23 bút danh khác nhau (Nhớ một thời làm báo, Hồi ký của nhiều tác giả.Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996). Theo thống kê chưa đầy đủ, trong khoảng thời gian 16 tháng (từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết 157 bài, chủ yếu là đăng trên Báo Cứu Quốc, cơ quan của Tổng bộ Việt Minh. Trong đó, bài đầu tiên được đăng báo Cứu Quốc số 36 ra ngày 5/9/1945 là Lời kêu gọi Quốc dân Việt Nam ký tên Hồ Chí Minh; bài cuối đăng báo Cứu Quốc số 434 ra ngày 13/12/1946 mang tiêu đề Động viên kinh tế ký tên Q.T.Còn một số ít bài đăng ở các báo khác như: Lời hiệu triệu đăng trên Báo Sự thật số 21 ra ngày 27/2/1946; Thư gửi báo Thiếu Sinh đăng trên Báo Thiếu sinh số 1 ra ngày 1/10/1945; Thư gửi Nguyễn Hải Thần - Vũ Hồng Khanh đăng trên Báo Việt Nam số 19 ra ngày 6/12/1945; Gửi Nông gia Việt Nam đăng trên Báo Tấc Đất số 1 ra ngày 7/12/1945; Thư gửi Phụ nữ Việt Nam nhân dịp Xuân Bính Tuất 1946 đăng trên Báo Tiếng gọi phụ nữ số Xuân Bính Tuất 1946; Thư gửi Hội Hướng đạo Việt Nam đăng trên Báo Hướng đạo Thẳng tiến số 3 ra ngày 10/6/1946…

 
 
Bài Hồ Chủ Tịch gửi Nông gia Việt Nam đăng trên Báo Tấc Đất số 1 ra ngày 7/12/1945
Các bài viết của Người chủ yếu ký tên Hồ Chí Minh, ngoài ra Người còn dùng ba bút danh khác là Chiến Thắng, Q.T, Q.Th cho một số bài viết trong thời gian này.
Từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946 là một giai đoạn lịch sử đặc biệt sôi động, đầy hiểm nguy và gian khó đối với nhân dân Việt Nam và cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh ấy, tư tưởng bao trùm trong các bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ý chí kiên quyết đấu tranh bảo vệ nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, cùng khát vọng sâu sắc về tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Đây cũng là thời gian thực dân Pháp trở lại tái chiếm Nam bộ, tìm mọi cách để tách Nam bộ ra khỏi nước Việt Nam. Trước dã tâm đó của quân xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Nam bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi” (Thư gửi đồng bào Nam bộ, Cứu Quốc số 255, ngày 1-6-1946). Gần 5 tháng sau, Người đã bộc bạch trước quốc dân tình cảm và quyết tâm của Người đối với việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc: “Một ngày mà tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên. Tôi trân trọng hứa với đồng bào rằng: Với quyết tâm của đồng bào, với quyết tâm của toàn thể nhân dân, Nam bộ nhất định trở lại cùng thân ái chung trong lòng tổ quốc”. (Lời tuyên bố với Quốc dân sau khi đi Pháp về. Cứu Quốc số 384, ngày 23-10-1946).
Cách mạng đã thành công, đất nước đã giành độc lập, nhưng đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nhân văn vĩ đại, thì độc lập dân tộc không thể tách rời với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Ngày 17/10/1945 trong Thư gửi Ủy ban Nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, sau khi chỉ ra những việc cần làm, cần khắc phục để xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng thực sự của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” (Cứu quốc số 69, ngày 17-10-1945). Ngày 21/1/1946, khi trả lời các nhà báo nước ngoài, một lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định lại tư tưởng nhân văn cao quí này: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi” (Cứu Quốc số 147, ra ngày 21-1-1946). Năm 1911, khi rời tổ quốc sang Pháp để tìm hiểu xã hội đã sản sinh ra những tư tưởng nhân quyền kỳ vĩ: Tự do, Bình đẳng, Bác ái, để rồi tiếp tục đi tìm hiểu nhân loại xem thiên hạ sống như thế nào để tìm chọn cách trở về giúp đồng bào thoát khỏi cuộc đời nô lệ, lầm than và bất công. Lúc đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mang trong mình khát vọng cứu dân cháy bỏng. Giờ đây, khi đất nước đã giành được độc lập, Người đã làm và yêu cầu chính quyền, nhân dân cùng làm tất cả những việc có thể làm được để đem lại hanh phúc cho nhân dân. (Chống nạn thất học, Báo Cứu Quốc số 58 ra ngày 4-10-1945).
Chính vì vậy mà chưa đầy 24 giờ sau Lễ tuyên bố độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần phải giải quyết ngay trong đó có chống giặc dốt. Do chính sách ngu dân của kẻ xâm lược, 95% người dân Việt Nam lúc đó mù chữ. Để nâng cao dân trí, để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn tất cả mọi người Việt Nam đều phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ. Người kêu gọi đồng bào “Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ…Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi. Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo”
Sau Cách mạng tháng Tám, nạn đói do Phát xít Nhật và thực dân Pháp gây ra từ cuối năm 1944 vẫn còn đe dọa nghiêm trọng đời sống nhân dân Bắc bộ, ngày 28/9/1945, Người viết bài Sẻ cơm nhường áo đăng báo kêu gọi đồng bào: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng.
Vậy tôi đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước:
Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo.
Như vậy, thì những người nghèo sẽ có bữa rau, bữa cháo để chờ mùa lúa năm sau, khỏi đến nỗi chết đói” (Cứu Quốc số 53 ra ngày 28-9-1945).
Hai tháng sau, Người viết tiếp bài Gửi Nông gia Việt Nam kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! “ để cứu đói (Báo Tấc đất số 1 ra ngày 7-12-1945).
Đoàn kết toàn dân nhằm tập hợp mọi người Việt Nam yêu nước tham gia sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là một tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó cũng là nội dung nhiều bài báo của Người nhắc đến trong thời gian này như: Thư gửi các vị phụ lão (Cứu Quốc số 48 ra ngày 21-9-1945); Thư gửi các giới công thương Việt Nam (Cứu Quốc số 66 ra ngày 13-10-1945); Lời cảm ơn đồng bào công giáo (Cứu Quốc số 70 ra ngày 18 - 10 -1945)…
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới xây dựng bộ máy chính quyền và cán bộ chính quyền các cấp. Người yêu cầu, trong hoạt động thực tiễn, chính quyền cách mạng phải thể hiện được bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội mới vì nhân dân. Tư tưởng đó, sự quan tâm đó cũng được thể hiện trong nhiều bài viết của Người như: Cách tổ chức của Ủy ban nhân dân (Cứu Quốc số 40 ra ngày 11-9-1945, ký tên Chiến Thắng); Chính phủ là công bộc của dân (Cứu quốc số 46 ra ngày 19-9-1945, Chiến Thắng); Thiếu óc tổ chức - một khuyết điểm lớn trong các Ủy ban nhân dân (Cứu Quốc số 58 ra ngày 4-10-1945, Chiến Thắng); Lời khuyên anh em viên chức (Cứu Quốc số 146 ra ngày 19-1-1946)… Người tin vào nhân dân, tin vào những khả năng tiềm ẩn trong nhân dân nên đã viết bài kêu gọi những người có tài hãy ra sức giúp nước: Nhân tài và kiến quốc (Cứu Quốc số 91 ra ngày 14-11-1945); Tìm người tài đức (Cứu Quốc số 411 ra ngày 20-11-1946).
Những bài viết của Người trong những năm 1945-1946 (cũng như trước đó và sau này) luôn gắn liền với những vấn đề cụ thể của đất nước về tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, xã hội, kinh tế, văn hóa, giáo dục… bởi vì, độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân là tất cả cuộc đời của Người.
Nhân kỷ niệm 100 năm ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2025), đọc lại một số bài báo năm xưa của Người, từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946, đặc biệt là những bài về xây dựng nước, chúng ta càng cảm nhận thấy rõ hơn sự mẫn tiệp, tính nhân văn cùng tầm vóc lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lịch sử dân tộc./.

Thu Hà 

Bảo tàng Lịch sử quốc gia

Chia sẻ:

Bài nổi bật

Đồng chí Xuân Thủy với báo Suối Reo và báo Cứu Quốc

Đồng chí Xuân Thủy với báo Suối Reo và báo Cứu Quốc

  • 18/06/2019 10:06
  • 5994

* Làm báo Suối Reo trong nhà tù Sơn La

Bài viết khác

Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân

  • 19/05/2025 08:50
  • 1007

Nhân kỷ niệm 135 Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19.5.1890-19.5.2025), Tổng Bí thư Tô Lâm có bài viết: “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân”.