Khi nghiên cứu tài liệu về đồ gốm cổ Việt Nam chúng tôi đã gặp chiếc bình gốm men trắng xám nhạt hiện lưu giữ tại Bảo tàng Hoàng gia nghệ thuật và lịch sử Brussels (Bỉ) có xuất xứ từ Thanh Hóa. Trên bình có khắc dòng chữ Hán: Kiến Hòa tam niên tứ nguyệt chấp nhật Lý thị tác (có nghĩa Họ Lý làm vào ngày 20 tháng 4 năm Kiến Hòa 3, 149. John Stenvenson, 1997). Ở Bảo tàng Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) cũng trưng bày một chiếc bình gốm hoa lam Việt Nam rất đặc biệt. Trên bình có dòng chữ Hán viết bằng men lam xung quanh vai: Đại Hòa bát niên tượng nhân Nam Sách châu Bùi thị hý bút (có nghĩa Tượng nhân họ Bùi, người châu Nam Sách vẽ, niên hiệu Đại Hòa 8, 1450. Nguyễn Đình Chiến, 1999). Khi nghiên cứu các đồ Ngự dụng trong sưu tập Hoàng cung triều Nguyễn lưu giữ tại Bảo tàng lịch sử Quốc gia, chúng tôi cũng gặp nhiều hiện vật có khắc các dòng chữ nói về các tượng nhân như Nguyễn Tận ở Ty Ngân tượng hay vũ khố; Lê Văn Trường, Lê Khương ở Cục tượng ngân phủ Nội tạo. Đây đều là những người thợ tài khéo được lưu danh trên đồ Ngự dụng. (Nguyễn Đình Chiến, 2015). Theo chúng tôi,Tượng nhân là một danh xưng ở các thế kỷ trước đây có thể đồng nghĩa với Nghệ nhân của thời hiện đại. Đặng Huyền Thông là tượng nhân tạo tác đồ gốm thời Mạc mà tên tuổi còn được lưu danh trên nhiều tác phẩm gốm men lam xám. Chính vì vậy, chúng tôi đặt tiêu đề cuốn sách giới thiệu về ông là Đặng Huyền Thông – Tượng nhân gốm tài hoa thời Mạc. Cuốn sách do Bảo tàng lịch sử Quốc gia xuất bản năm 2017, Nhà xuất bản Thanh Niên.
Khi nghiên cứu tài liệu về đồ gốm cổ Việt Nam chúng tôi đã gặp chiếc bình gốm men trắng xám nhạt hiện lưu giữ tại Bảo tàng Hoàng gia nghệ thuật và lịch sử Brussels (Bỉ) có xuất xứ từ Thanh Hóa. Trên bình có khắc dòng chữ Hán: Kiến Hòa tam niên tứ nguyệt chấp nhật Lý thị tác (có nghĩa Họ Lý làm vào ngày 20 tháng 4 năm Kiến Hòa 3, 149. John Stenvenson, 1997). Ở Bảo tàng Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) cũng trưng bày một chiếc bình gốm hoa lam Việt Nam rất đặc biệt. Trên bình có dòng chữ Hán viết bằng men lam xung quanh vai: Đại Hòa bát niên tượng nhân Nam Sách châu Bùi thị hý bút (có nghĩa Tượng nhân họ Bùi, người châu Nam Sách vẽ, niên hiệu Đại Hòa 8, 1450. Nguyễn Đình Chiến, 1999). Khi nghiên cứu các đồ Ngự dụng trong sưu tập Hoàng cung triều Nguyễn lưu giữ tại Bảo tàng lịch sử Quốc gia, chúng tôi cũng gặp nhiều hiện vật có khắc các dòng chữ nói về các tượng nhân như Nguyễn Tận ở Ty Ngân tượng hay vũ khố; Lê Văn Trường, Lê Khương ở Cục tượng ngân phủ Nội tạo. Đây đều là những người thợ tài khéo được lưu danh trên đồ Ngự dụng. (Nguyễn Đình Chiến, 2015). Theo chúng tôi,Tượng nhân là một danh xưng ở các thế kỷ trước đây có thể đồng nghĩa với Nghệ nhân của thời hiện đại. Đặng Huyền Thông là tượng nhân tạo tác đồ gốm thời Mạc mà tên tuổi còn được lưu danh trên nhiều tác phẩm gốm men lam xám. Chính vì vậy, chúng tôi đặt tiêu đề cuốn sách giới thiệu về ông là Đặng Huyền Thông – Tượng nhân gốm tài hoa thời Mạc. Cuốn sách do Bảo tàng lịch sử Quốc gia xuất bản năm 2017, Nhà xuất bản Thanh Niên.
Năm 1999, với sự tài trợ của Toyota Foundation Japan, Bảo tàng lịch sử Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc Gia) đã cho xuất bản cuốn sách Cẩm nang đồ gốm Việt Nam có minh văn thế kỷ 15-19. Trong cuốn sách này chúng tôi đã đề cập giới thiệu bước đầu về 14 tác phẩm gốm của Đặng Huyền Thông. Cho đến nay sau hơn 20 năm tập hợp tài liệu về các tác phẩm gốm của tác giả Đặng Huyền Thông cả trong và ngoài nước, chúng tôi đã thu được 24 trường hợp có minh văn đúc chạm nổi hay khắc chìm trước khi phủ men, cho biết rõ về tác giả, niên đại tuyệt đối và nhiều thông tin khác như các ngôi chùa quán và họ tên các thiện nam tín nữ. Đây là trường hợp rất hiếm xuất hiện trên các sản phẩm gốm thời Mạc. Trên cơ sở so sánh qua kiểu dáng, hoa văn và men, chúng tôi đã xác định được 19 tác phẩm khác của Đặng Huyền Thông. Tuy không có minh văn. Như vậy trong cuốn sách này chúng tôi giới thiệu kết quả nghiên cứu về 45 tác phẩm gốm của Tượng nhân Đặng Huyền Thông. Trong đó, số lượng tập trung nhất là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (8), Bảo tàng Hà Nội (4), Bảo tàng Hải Dương (4). Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Nam Định và Bảo tàng Mỹ thuật Cung Đình Huế, mỗi nơi có một tác phẩm. Tại di tích hiện còn một lư hương ở chùa Đống Cao (Hải Dương), một chân đèn ở nhà truyền thống xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định và một tầng tháp mô hình ở chùa Minh Phúc, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Qua các tài liệu trong nước, chúng tôi tập hợp được 15 tác phẩm thuộc các sưu tập tư nhân ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và TP. Hồ Chí Minh. Qua tài liệu nước ngoài, chúng tôi tập hợp được 8 tác phẩm thuộc các sưu tập bảo tàng và cá nhân từ các quốc gia Nhật Bản, Canada, Hoa Kỳ, Bỉ, Hàn Quốc, Pháp và CHLB Đức.
Nghiên cứu sưu tập gốm Đặng Huyền Thông cho chúng ta những thông tin quan trọng về một nghệ nhân đỉnh cao ở cuối thời Mạc (1527- 1592). Trong đó, các tác phẩm được tạo tác có thể theo dõi được trong khoảng 10 năm, từ năm 1580 đến năm 1590.
Loại hình đồ gốm men lam xám do tượng nhân Đặng Huyền Thông tạo tác bao gồm các loại đồ thờ phục vụ tôn giáo tín ngưỡng như chân đèn, lư hương, tháp thờ và hũ thờ. Tạo hình các tác phẩm gốm của Đặng Huyền Thông cũng mang những nét riêng độc đáo. Chẳng hạn, chân đèn được tạo tác 2 phần rời, sau khi nung chín được lắp khớp lại. Phần trên chân đèn như một bông sen nở với hai lớp cánh dài và ngắn, trong mỗi cánh lại in nổi một hình rồng với tư thế khác nhau. Phần dưới chân đèn tạo dáng như một chiếc “mai bình” với miệng nhỏ, vai phình, thân thuôn, chân đế choãi. Sự cân đối hài hòa giữa tạo dáng và hoa văn trang trí, ông đã làm nên những tác phẩm gốm đặc sắc so với các loại hình gốm đương thời.
Các lư hương của ông được tạo dáng mô phỏng hình dáng chiếc trống đồng Đông Sơn cùng với các mô típ hoa văn hình học như vạch đứng song song, vòng tròn có chấm giữa càng phản ảnh rõ hơn về sự hồi sinh của nghệ thuật Đông Sơn trên tác phẩm gốm thế kỷ 16.
Tuy nay chỉ còn một trường hợp tầng tháp mô hình gốm men lam xám tại chùa Minh Phúc (Hải Phòng) nhưng cho ta thấy những loại hoa văn tương đồng trên chân đèn và lư hương do ông tạo tác như băng bông hoa mặt trời trên vạch đứng song song, hình rồng yên ngựa, hình quan văn cùng lớp men phủ màu lam xám. Tác phẩm gốm này đóng góp một loại hình gốm thờ trong ngôi chùa thời Mạc, tiếp nối phong cách truyền thống thời Lý - Trần.
Hũ thờ gốm men lam xám trong sưu tập cũng là hiện tượng đáng chú ý với các loại hoa văn như răng cưa, nửa bông hoa trong tam giác, bông hoa mặt trời trên vạch đứng song song, mặt trời có dải tua uốn đối xứng trong ô chữ nhật. Cánh sen hiện thực và vạch đứng song song. Các loại hoa văn này đều thấy xuất hiện trên các tác phẩm chân đèn, lư hương gốm của Đặng Huyền Thông tạo tác vào niên hiệu Hưng Trị (1588-1591).
Với kỹ thuật trang trí tinh xảo, các thủ pháp đúc nổi, dán ghép, in nổi, kết hợp với chạm đắp nổi hay khắc bằng tay, Đặng Huyền Thông đã tỏ ra rất nhuần nhuyễn theo các kỹ thuật tạo tác gốm truyền thống. Để trang trí ông không dùng bút lông như các nghệ nhân ở Bát Tràng để trang trí cho dòng gốm hoa lam, ở đây ông hoàn toàn dùng lối trang trí nổi theo phong cách phù điêu. Đề tài trang trí phổ biến nhất là hình rồng với gần 20 kiểu bố cục khác nhau, cùng với lá đề, cánh sen, sen dây là những loại hoa văn biểu trưng của Phật giáo. Ngoài ra, các băng hoa văn đường diềm ở miệng, vai và chân đế của chân đèn và lư hương được ông sử dụng các băng hoa văn hình học, thường là hồi văn hoặc bố cục đối xứng. Nhiều kiểu bố cục hoa văn rồng mang dấu ấn nối tiếp truyền thống mỹ thuật thời Lý ,Trần, Lê Sơ.
Loại men sử dụng trên các tác phẩm gốm này chủ yếu là men lam xám, một loại men dày và trong như loại men ngọc. Cạnh đó ông còn sử dụng men vàng hoặc nâu đen tạo thêm sự đa dạng màu men trên sản phẩm.
Điều đặc biệt lý thú là trên nhiều tác phẩm của ông đều khắc hoặc đúc nổi minh văn bằng chữ Hán cho biết rõ họ tên đầy đủ của ông là Đặng Mậu Nghiệp, tự là Huyền Thông. Ông là sinh đồ, người đã thi đỗ tam trường, làm thợ gốm, quê ở xã Hùng Thắng, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, (nay là xã Minh Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Trên các tác phẩm gốm của Đặng Huyền Thông, minh văn chạm đúc nổi hay khắc chìm cũng đóng góp vai trò trang trí. Dưới lớp men phủ trong và dầy màu lam xám hoặc kết hợp với men vàng nâu, các dòng minh văn càng nổi bật.
Minh văn trên nhiều tác phẩm gốm của ông còn cho biết các thông tin về ngày tháng tạo tác cụ thể theo lịch Trăng và năm Can Chi. Qua theo dõi các tác phẩm này chúng tôi đã thấy thời gian làm gốm của ông tập trung trong khoảng 10 năm từ 1580 đến 1590. Hơn nữa, minh văn còn cho biết họ tên quê quán của những người đặt hàng là các tầng lớp trong xã hội từ tầng lớp quý tộc như Phò mã, Công chúa đến tầng lớp bình dân. Cũng qua minh văn còn cho biết nhiều chân đèn và lư hương của ông được đặt làm để cung tiến cho các ngôi chùa, quán ở nhiều tỉnh thành vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Minh văn trên các tác phầm gốm của ông còn cho biết thông tin về thời gian tạo tác. Có tới 19 trường hợp đồ gốm men xác định được niên đại tuyệt đối, ghi rõ ngày và tháng cùng niên hiệu năm tạo tác như ở phần dưới chân đèn, ngày 21 tháng 9, niên hiệu Diên Thành 3 (1580); chân đèn 2 phần, ngày 14 tháng 11, niên hiệu Diên Thành 5 (1582); lư hương, ngày19 tháng 11, niên hiệu Diên Thành5 (1582)vv...
Qua hơn 10 năm tạo tác gốm, Đặng Huyền Thông đã làm nên một dòng gốm riêng biệt với loại hình đồ gốm thờ ổn định mà không đơn điệu. Theo dõi các tác phẩm gốm qua các mốc thời gian, chúng ta có thể nhận ra các nét riêng bởi những mẫu hoa văn được sử dụng. Có khi là cả một nhóm mẫu hoa văn xuất hiện, với niên đại tuyệt đối của các chân đèn, lư hương này như là một vựng tập thang chuẩn mà dựa vào đó chúng ta hoàn toàn có cơ sở đối chiếu xác định cho những đồ gốm khác thuộc phong cách của ông tuy không có minh văn.
Minh văn trên các tác phẩm gốm Đặng Huyền Thông đều được thể hiện trên phần dưới chân đèn, khoảng giữa các ô “viên long”. Trên các lư hương minh văn thể hiện trên các dải quai lớn và nhỏ. Minh văn không chỉ thể hiện bằng chạm đúc nổi mà còn khắc chìm trước khi phủ men. Nội dung minh văn chẳng những cho biết về các thông tin họ tên tác giả tạo tác, mà còn có các ngôi chùa quán, họ và tên các thiện nam tín nữ. Nghiên cứu về minh văn trên các tác phẩm gốm Đặng Huyền Thông, chúng ta còn có nhiều thông tin khác như về chữ Nôm, chữ giản thể... vẫn còn được sử dụng trong các văn bản thời Mạc. Thông qua sưu tập gốm có minh văn của tác giả Đặng Huyền Thông sẽ bổ sung cho sưu tập đồ gốm Việt Nam có minh văn ngày càng đầy đủ hơn, góp phần đáng kể vào kho di sản văn hóa Hán Nôm Việt Nam.
Những thông tin về tác giả Đặng Huyền Thông không chỉ thấy trên đồ gốm mà còn trên minh văn bia chùa An Đinh ( Hải Dương) quê hương ông. . Nay tấm bia chỉ còn một số mảnh vỡ đặt tại đền thờ ông nhưng còn bản dập lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Số 12579. Bia lập ngày 23 tháng 2, niên hiệu Đoan Thái 3(1587). Nội dung văn bia cho biết chùa An Đinh xưa đã bị mai một, ông cùng vợ là Từ Am Nguyễn Thị Đỉnh kết hợp với nhiều vương công và đông đảo tín đồ trong xã đứng ra dựng chùa, tạc tượng vào năm 1587. Bài minh văn trên tấm bia này do chính ông soạn lời. Những thông tin trên đóng góp vào việc nghiên cứu về sự phục hưng của Phật giáo dưới thời Mạc.
Ngoài họ tên tác giả Đặng Huyền Thông chúng tôi còn thấy một số tác phẩm gốm khác ghi danh Đặng Thiện Sỹ như 2 chiếc chân đèn khắc thời gian tạo tác vào ngày 15 tháng 6 ,niên hiệu Hồng Ninh 2 (1592), niên hiệu cuối cùng của Mạc Mậu Hợp. Phải chăng , tác giả này là con cháu hay học trò của Đặng Huyền Thông?
Các tác phẩm gốm của Tượng nhân Đặng Huyền Thông đã được trưng bày, giới thiệu tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Bảo tàng Hải Dương cũng như nhiều cuộc trưng bày chuyên đề trong nước. Thông tin về các tác phẩm gốm này cũng được xuất bản trong nhiều tập sách nghiên cứu về gốm Việt Nam ở trong và ngoài nước. Nhiều nghệ nhân ở Bát Tràng, Chu Đậu đã sáng tạo nhiều mẫu chân đèn, lư hương phỏng theo các tác phẩm gốm Đặng Huyền Thông. Tiêu biểu là các nghệ nhân: Lê Văn Cam, Nguyễn Đức Dương, Trần Độ, Nguyễn Đức Thắng, Tô Thanh Sơn ... ở làng gốm Bát Tràng. Tại Xí nghiệp gốm Chu Đậu các chân đèn, lư hương cũng được tái tạo trở thành những mẫu mã mới phục vụ cho đối tượng khách hàng cung tiến cho các ngôi chùa trong vùng. Hiện tượng này phản ánh sức sống kỳ diệu cùa các tác phẩm Đặng Huyền Thông trong thời hiện đại.
Cuốn sách Đặng Huyền Thông- Tượng nhân gốm thời Mạc, ra mắt bạn đọc là sự cố gắng của chúng tôi với mong muốn đóng góp vào lịch sử nghiên cứu gốm Việt Nam một bộ sưu tập tương đối đầy đủ của Tượng nhân gốm Đặng Huyền thông thời Mạc, thế kỷ 16.
Công việc nghiên cứu tiếp theo, không chỉ là thu thập, tập hợp thêm nữa về các tài liệu liên quan đến tác phẩm gốm của Đặng Huyền Thông mà còn đặt ra vấn đề làm rõ mối quan hệ giữa Đặng Huyền Thông và Đặng Thiện Sỹ. Ngoài ra, các tài liệu hiện vật trong các bảo tàng, các sưu tập tư nhân và đặc biệt tại các di tích cần được sự quan tâm của các cơ quan tổ chức trong việc bảo vệ và tu sửa bảo quản để các di sản gốm Đặng Huyền Thông ngày càng được phát huy, giới thiệu rộng rãi đến đông đảo công chúng.
Đặng Huyền Thông, một tượng nhân tạo tác gốm đỉnh cao thời Mạc, xứng đáng là một ngôi sao sáng rực rỡ trong lịch sử nghề gốm cổ truyền Việt Nam.
TS.Nguyễn Đình Chiến