Đồng chí Trần Đăng Ninh tên khai sinh là Nguyễn Tuấn Đáng, sau khi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, ông lấy bí danh là Trần Đăng Ninh. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, ông đã được Đảng giao nhiều nhiệm vụ quan trọng trong đó phải nói đến vai trò của ông đối với cách mạng Bắc Sơn: “Đồng chí Trần Đăng Ninh là chiến sĩ cách mạng từ miền xuôi đến và trực tiếp tham gia chiến đấu vào giai đoạn khó khăn nhất ở Bắc Sơn”.
Ngày 2/6/1940, Pháp đầu hàng Đức, nhân cơ hội đó Nhật tìm cách chiếm các thuộc địa của Pháp tại Đông Dương. Ngày 22/9/1940 quân Nhật vượt qua biên giới Việt Trung tiến vào Lạng Sơn. Ngày 27/9/1940 cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ, Ủy ban khởi nghĩa được thành lập, quân khởi nghĩa chia làm ba cánh quân cùng tiến đến và chiếm đồn Mỏ Nhài.

Đồng chí Trần Đăng Ninh (trái) và Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại chiến khu Việt Bắc thời kỳ chống Pháp 1946-1954 (ảnh: qdnd.vn)
Đầu tháng 10 giữa lúc cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đang lan rộng thì Nhật và Pháp đã thỏa hiệp để đàn áp cách mạng Việt Nam. Quân Pháp tập trung lực lượng dập tắt cuộc khởi nghĩa. Đúng lúc đó, Xứ ủy Bắc kỳ nhận được thông báo về cuộc khởi nghĩa, Xứ ủy đã cử đồng chí Trần Đăng Ninh lên Bắc Sơn lãnh đạo phong trào đấu tranh ở đây.
Ngày 14/10/1940, tại làng Sa Khao, xã Vũ Lăng, huyện Bắc Sơn, đồng chí Trần Đăng Ninh đã có cuộc thảo luận với một số cán bộ đảng viên và đi đến quyết định:
Tập trung đảng viên và quần chúng tích cực, vận động nhân dân thu nhặt vũ khí của địch để tổ chức du kích làm nòng cốt cho phong trào cách mạng.
Xây dựng các vùng Sa Khao, Bản Me, Mỏ Tát, Đơn Úy, Nam Nhi
(Vũ Lăng), Nà Tấu (Ngư Viễn) thành khu căn cứ của du kích.
Xóa bỏ chính quyền của chế độ phong kiến, tịch thu tài sản chia cho dân nghèo.
Tổ chức mít tinh, kêu gọi nhân dân ủng hộ cách mạng. Đồng chí Trần Đăng Ninh được hội nghị cử làm phụ trách Ban chỉ đạo, trực tiếp lo hai việc quan trọng nhất là xây dựng đội du kích và xây dựng khu căn cứ du kích.
Ngày 16/10/1940 tại làng Đơn Úy, đồng chí Trần Đăng Ninh thay mặt Ban chỉ đạo nêu rõ đường lối đánh Pháp, chống Nhật của Đảng và đề ra nhiệm vụ cấp bách là tổ chức lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng, đấu tranh chống địch khủng bố. Đơn Úy được chọn là cơ sở bí mật và là trung tâm của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Cùng ngày tại Đơn Úy, đội du kích Bắc Sơn được thành lập gồm 20 người.
Có đảng lãnh đạo, có căn cứ, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt, đến cuối tháng 10/1940 đội quân du kích Bắc Sơn đã phát triển từ 20 người đến 200 người được biên chế thành nhiều tiểu đội. Thành phần tham gia vào đội du kích là “những chiến sĩ có thể đánh du kích, có luyện tập nhưng không thoát ly sản xuất. Lúc có việc thì thành đội du kích, khi bình thường vẫn sinh hoạt như dân thường”. Sau khi thành lập, đội du kịch Bắc Sơn đã tạo được tiếng vang khi làm chủ chính quyền xã Vũ Lăng, tuy nhiên do lực lượng yếu, Pháp đã tiến hành chiếm lại. Trước tình hình đó, Ban chỉ đạo đã họp ở Nà Pán (xã Vũ Lăng) quyết định “dù khó khăn đến đâu cũng phải duy trì hoạt động của căn cứ”.
Tháng 11/1940, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 của Đảng họp ở Đình Bảng, quyết định cử đồng chí Trần Đăng Ninh về duy trì căn cứ Bắc Sơn và bồi dưỡng lực lượng du kích Bắc Sơn làm nòng cốt quân sự cho khởi nghĩa vũ trang rộng lớn sau này. Đồng thời quyết định chuyển hướng hoạt động của du kích, thành lập khu căn cứ du kích, lấy vùng Bắc Sơn - Võ Nhai làm trung tâm do thường vụ Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo. Ngay sau hội nghị, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương thông báo khẩn cấp ra chỉ thị cho các địa phương phải “cấp tốc thi hành những biện pháp ủng hộ Bắc Sơn có hiệu quả”. Hưởng ứng lời kêu gọi phong trào ủng hộ các chiến sĩ du kích Bắc Sơn, hai đồng chí Lương Văn Chi và Phùng Chí Kiên được bổ sung vào đội du kích Bắc Sơn. Được sự quan tâm của Đảng và nhân dân, đội du kích Bắc Sơn được củng cố và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ các đồng chí lãnh đạo của Đảng đi dự Hội nghị Trung ương lần thứ tám tại Pắc Bó. Ngày 1/5/1941, nhân ngày quốc tế lao động, đội du kích Bắc Sơn tổ chức buổi ra mắt trước nhân dân địa phương ở Khuổi Nọi.
Tháng 5/1941, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 đã quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh. Trên cơ sở đội du kích Bắc Sơn và căn cứ Bắc Sơn, hội nghị quyết định xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, thành lập căn cứ địa lấy vùng Bắc Sơn - Võ Nhai - Cao Bằng làm trung tâm của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Tháng 7/1941, đội du kích Bắc Sơn lại được giao nhiệm vụ đưa đón bảo đảm an toàn cho các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt qua căn cứ Bắc Sơn về miền xuôi. Chính tại đây, Tổng Bí thư Trường Chinh đã phổ biến tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tám, theo đó đội du kích Bắc Sơn được đổi tên thành Cứu quốc quân 1, do đồng chí Phùng Chí kiên, Ủy viên Trung ương Đảng làm chỉ huy trưởng; đồng chí Lương Văn Chi làm Chỉ huy phó. Tiếp đến là sự ra đời của Trung đội Cứu quốc quân 2 ở Tràng Xá, tạo nên một vùng căn cứ liên huyện ở Bắc Sơn - Võ Nhai. Trung đội Cứu quốc quân 3 ra đời ở Sơn Dương (Tuyên Quang). Ngày 15/4/1945, thực hiện nghị quyết Hội nghị Quân sự Bắc kỳ, Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân thống nhất thành Việt Nam Giải phóng Quân.
Từ Bắc Sơn - Võ Nhai, căn cứ địa cách mạng nhanh chóng được xây dựng và mở rộng sang Đại Từ, Sơn Dương, Yên Thế… Đến những ngày tiền khởi nghĩa khu giải phóng của cách mạng gồm sáu tỉnh Cao - Bắc - Lạng - Hà - Tuyên - Thái. Đây là căn cứ lớn nhất - một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám trong phạm vi cả nước.
Ra đời trong bối cảnh cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đang nổ ra, đội du kích Bắc Sơn được thành lập và được sự dìu dắt ban đầu của đồng chí Trần Đăng Ninh. Tồn tại và phát triển trong vùng căn cứ Bắc Sơn, đội du kích Bắc Sơn là một trong những tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đây là nòng cốt quân sự quan trọng cho việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng về sau.
Thu Nhuần (Tổng hợp)
Nguồn:
- “Đồng chí Trần Đăng Ninh với cách mạng Việt Nam”, nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2014.